Bài này vô tình đọc được trên Fb của anh Thái Hạo , cảm thấy có nhiều điểm tương đồng với suy nghĩ của mình trước nay nên lưu lại 🙂
/line
Có lẽ trong lịch sử xã hội VN chưa bao giờ tình trạng mê tín lại ngập ngụa như bây giờ, từ bói toán, phong thủy, tu hành; từ nhà ra phố tới chùa… không đâu không thấy sự mê muội đến ngớ ngẩn, bệnh hoạn như như thời này. Người nhà chết nhiều ngày mà vẫn không chịu chôn vì… chưa được giờ; làm cái nhà lại quay lưng ra đường vì gia chủ không hợp với hướng đường, xây nhà phải kiếm người đặt móng vì khổ chủ không được tuổi, nào là nhẫn phong thủy, vòng phong thủy; đôi lứa phải chia lìa vì cha mẹ quyết ngăn cản bởi… không hợp tuổi; nhiều người sinh con bằng cách… mổ cho đúng giờ đại cát; sự mê tín hoành hành cả vào trường học với những thủ tục quái gở liên quan tới cúng bái trước các kì thi; chùa chiền chật ních những ngày tết vì người đi… cầu lộc, cầu an, thậm chí chen lấn dẫm đạp lên nhau mà tranh cướp ấn lộc… Sự mê tín bủa vây đầu óc từ người nông dân, đến thương gia, trí thức, giới chính trị… Mê tín là một niềm tin mê muội. Tin mà không có cơ sở, tin một cách mù quáng, rằng vì mọi người cũng tin như vậy. Tại sao ngày tết lên chùa đốt nhang khấn vái trước tượng phật lại có thể cầu được lộc được an? Ông Phật có lộc để ban ư? An hay nguy do cách mỗi người sống trong sự đối người tiếp vật chứ sao lại giao phó cho một pho tượng bằng đất đang ngồi bất động ? Khi nào con người ném cuộc đời mình cho sự may rủi? Làm sao thánh thần lại phải gánh lấy cuộc đời chúng ta? Tại sao trời đất với bốn phương tám hướng với xuân hạ thu đông vô tư này lại phải quyết định số mệnh của mỗi người? Và con người là gì giữa vạn sự vạn vật ? Đạo đức nô lệ mới có những sự sợ hãi hoang dã, nền luân lý của chủ ông (Nietszche) là hành xử của kẻ trượng phu tự gánh vác lấy cuộc đời mình và biết chịu trách nhiệm về những gì mình làm. Một xã hội nô lệ tất sinh ra mê tín. Ai là giáo chủ của thời này? Danh và lợi – hư danh và ô lợi. Khi một xã hội tuyên bố rằng kinh tế quyết định ý thức, vật chất quyết đinh tinh thần thì tất yếu nó phải dẫn tới sự sùng bái vật chất bằng cách khinh miệt và chà đạp lên những giá trị văn hóa, rẻ rúng những giá trị nhân văn và bức hại các giá trị nhân bản. Mọi sáng tạo trên hành tinh này đều đi ra từ những suy tưởng và lao động trí óc chân chính của con người. Quá trình đô hộ ngược đã được chứng mình bằng cuộc xâm lược văn hóa của người Hi Lạp đối với kẻ thắng cuộc La Mã; người Mông cổ, Mãn Thanh đã thất bại và bị Hán hóa dù chiến thắng trên mặt trận quân sự. Một đất nước lấy sự hiểu biết và trí tuệ làm ngọn đuốc soi đường, đất nước ấy tất đi vào quỹ đạo văn minh. Chúng ta đang đi ngược lại con đường của thế giới khi nhất loạt quay về thời cổ đại của bái vật giáo, đa thần giáo cho đến nhất thần giáo. Trong khi nhân loại đang ngày càng tự chủ và tự tin vào sức mạnh của chính mình thì chúng ta lại đi ném cuộc đời mình cho ngày giờ, phương hướng, ma quỷ, thần thánh. Nỗi sợ hãi sinh ra vái tứ phương, phủ phục trước những thẻ tre, lạy lục trước tờ giấy ấn… Nhưng cái gì sinh ra nỗi sợ hãi này? Lòng tham. Tham thì muốn có, sợ hãi nếu không có được, đau đớn nếu mất đi. Lòng tham trước tiền bạc của cải như một thượng đế toàn năng đã dẫn con người tới chỗ luôn sống trong sợ hãi và đánh mất bản thân mình trong những mớ bong bong tinh thần của Tootem / vật tổ giáo, của quỷ thần. Nhưng cái gì sinh ra nỗi sợ hãi ấy? Sự thiếu hiểu biết đồng nghĩa với đánh mất chủ thể tính nơi mỗi người. Khi con người không hiểu mình và mờ mịt về thế giới thì tất sinh ra sự dựa dẫm. Nó ném cuộc đời mình cho những thứ vô tri được tôn lên hàng thần thánh. VN có một hệ thống giáo dục thất bại và một nền khoa học què quặt không đảm đương được sứ mệnh khai minh cho dân tộc, khiến nó phải kéo dài thời kì bán khai đến tận thế kỉ XXI này. Nền giáo dục và khoa học ấy là con ruột của một thiết chế xã hội sai lầm đầy bi kịch. Ở phương diện tín ngưỡng, xã hội VN đang bị phân hóa thành 2 bộ phận: vô thần và đa thần. Bộ phận vô thần này không phải kiểu vô thần như Nietszche, Sartre, Camus mà là vô thần theo nghĩa hoang dã chỉ tôn thờ một thứ duy nhất là Tiền và sẵn sàng nện dày lên mọi giá trị làm người miễn là kiếm và giữ được tiền. Bộ phận đa thần thì sống trong sự dựa dẫm và sợ hãi nguyên thủy. Mọi việc trong cuộc đời họ từ lấy vợ, làm nhà, sinh con, chọn nghề đều do thầy bói quyết định. Họ không dám tự định đoạt một việc gì cả, họ giao phó cuộc đời mình cho 12 con vật trong thế giới động vật. Cả 2 bộ phận này cùng một thủy tổ là chủ nghĩa Tư lợi. Những người Phật giáo thuộc loại nào? Phần đa là thuộc về đa thần giáo vì họ đã biến ông Phật thành một thần linh có khả năng ban phước giáng họa. Họ đến chùa không phải là đến trường học Phật giáo để nghiên cứu, quán xét, tư duy, để trao đổi thảo luận với ông thầy (sư) mà đến với nải chuối và cầu xin. Họ cúng dường cho thầy chùa để mong được chiếu cố, họ lạy Phật để mong được ban ơn. Những sư sãi ở chùa đã phần nhiều không còn đảm trách công việc trí tuệ mà vị thầy tổ của mình đã di huấn; họ tổ chức cúng sao, giải hạn, cầu siêu để thu tiền. Họ tổ chức lễ lạt với mâm cao cỗ đầy, với ngàn ngạt những tràng hoa, với ngựa xe như nước áo quần như nêm. Cái công việc dạy và học ở chùa gần như biến mất, có chăng là vài thời khắc tụng kinh hình thức đọc như những con vẹt ngủ gật mà quên mất rằng việc đọc kinh là để hiểu chân lý được cất giữ trong ấy, từ đó mà mang vào đời sống để kiến lập một cuộc đời và xã hội hạnh phúc, an định. Sự thức hành mê tín trong chốn “Duy tuệ thị nghiệp” là một điển hình cho tình trạng mê tín đến tàn mạt ở thời đổ nát của mọi giá trị này. Chùa là trường học, sư là thầy giáo, kinh là sách giáo khoa. Mỗi người đến chùa đúng nghĩa là để học hỏi trở thành con người tự chủ, tự do và đầy dũng khí; là để tiếp xúc với ánh sáng chân lý mà dẫn dắt lấy cuộc đời mình chứ không phải đến đó để biến mình thành một tên nô lệ hay một kẻ ăn mày cuối đầu cầu xin đủ thứ trên đời. Những người Phật giáo chân chính càng phải có trách nhiệm với cuộc đời chứ không phải mũ ni che tai, dùng vài từ tự lừa mị mình như “buông bỏ”, “tánh không” để che đi sự lười biếng và hèn nhát của mình trước các vấn nạn xã hội. Để giải quyết những khủng hoảng của xã hội VN đương thời không có cách nào khác là chấn hưng nền khoa học và giáo dục của nước nhà. Ở đó, những người trí thức phải trở thành lương tâm của dân tộc, trở thành não bộ của của xã hội, hòng dẫn dắt đất nước ra khỏi tình trạng mông muội. Những người trí thức nếu cứ ngồi đó mà đổ lỗi và chờ đợi lịch sử sang trang thì mới có thể thi triển tài năng và cống hiến thì cũng hệt như người bệnh nói “đợi khỏe mạnh đã tôi mới đi bệnh viện được”. Lúc xã tắc lâm nguy là lúc cần người trí thức hơn bao giờ hết. Sẽ không một nhà khoa học hay nhà giáo nào có thể thành tựu được lý tưởng nghề nghiệp chân chính của mình trong một cơ thể xã hội bệnh hoạn, nên việc cần làm trước tiên là chung tay chữa trị cho cơ thể xã hội ấy được lành lặn đã.
“Bi kịch tột cùng không phải là sự đàn áp của kẻ xấu mà là sự im lặng của những người tốt”
M. Luther King
Sự im lặng của người có học là không thể biện minh và tha thứ.
1. Phật giáo là gì?
Phật giáo là một hệ thống tư tưởng có nguồn gốc từ Ấn Độ, do một người có tên Sakyamuni (Thích Ca Mâu Ni) sáng lập. Ông là một Thái tử, đã kết hôn và có con; nhưng vì cảm nghiệm thấy cuộc đời nhiều khổ đau nên đã quyết tìm con đường giải thoát. Sau 6 năm gian khổ, trải qua nhiều phương pháp thực hành khác nhau, đến năm 30 tuổi ông đã giác ngộ (thấy được chân lý của vũ trụ, nhân sinh và đạt tới hạnh phúc trọn vẹn). Sau đó, ông dành cả cuộc đời còn lại (đến 80 tuổi) để truyền đạt tư tưởng và hướng dẫn đường lối tu hành cho mọi người. Tất cả những lời giảng của ông được tập hợp lại sau đó, được gọi là Kinh Phật. Như vậy, Phật giáo vốn KHÔNG PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO, nó là một hệ thống tư tưởng triết học có tính hiện sinh, dùng để áp dụng vào đời sống để tránh những lầm lạc và đạt tới mục đích cao nhất là hạnh phúc (viên mãn) bằng con đường của trí tuệ sáng suốt dựa trên nỗ lực và sự tự chủ của cá nhân mỗi người. Như thế, Phật là một ông thầy giáo – người có năng lực trí tuệ và lòng bi mẫn đã dành cả đời để giúp đỡ mọi người bằng cách “khai dân trí” cho họ. Chùa là trường học của nhà Phật, kinh là sách giáo khoa, đệ tử là học sinh. Mỗi người đến chùa là đang thực hiện con đường học vấn theo phương pháp của nhà Phật. Tuyệt nhiên không cần cúng bái, lạy lục – nếu có lạy cũng để tỏa lòng tôn kính và biết ơn thầy minh; không cần bày ra các lễ lạt rườm rà hình thức gây lãng phí và làm mê muội nhân tâm. Ngày nay, khi khi ông thầy sáng lập đã qua đời thì công việc giáo dục ấy được trao vào tay những vị thầy chùa ( sư ). Những người Phật tử đến chùa không được biến những vị sư này thành những thần thánh, hãy chỉ coi họ là thầy giáo, và kính trọng họ như kính trọng những vị thầy giáo (nếu họ có đức hạnh). Xin nhớ rằng, họ không có quyền năng gì trong việc ban phước giáng họ cho ta cả; cái lợi ích (nếu có) thì là do sự chân thành học hỏi và kiên trì thực hành đúng phương pháp từ lòng nhiệt thành giảng dạy của thầy chùa mà có.
2. Tư tưởng Phật giáo
Nếu tính cả Kinh, Luật, Luận thì hệ thống sách vở của Phật giáo sẽ “chất cao như núi”, làm nản lòng những ai muốn bước vào tìm hiểu. Nhưng dù phức tạp và uyên áo mà trí tuệ thông thường khó có thể lãnh ngộ hết được thì Phật giáo vẫn khá sáng sủa chỉ với 4 chữ: KHỔ – TẬP – DIỆT – ĐẠO (Khổ – Tập là Nguyên nhân của khổ – Diệt là Trạng thái hết khổ – và Đạo là Con đường thực hành để đạt tới hết khổ). Đây là “4 sự thật cao quý” – hay còn gọi là 4 chân lý căn bản, và người phật giáo phải hiểu được một cách thấu triệt để ra khỏi những nỗi khổ của đời sống. Khổ đế là sự thật (chân lý) về đời sống: đời nhìn chung là khổ, từ 8 nỗi khổ căn bản cho đến trăm ngàn nỗi khổ, vô biên nỗi khổ. Những nỗi khổ này bị gây ra bởi những tập khí – thói quen sai lầm của con người cả trong hành động, nói năng, suy nghĩ, tình trạng này được gọi chung là Vô minh – không thấy được ánh sáng của sự thật nên tạo tác sai lầm. Diệt là trạng thái hết khổ – trạng thái Niết Bàn của tinh thần, khi đạt tới trạng thái này con người đồng nghĩa với giác ngộ và đạt tới niềm phúc lạc vô biên – một thứ hạnh phúc chân thật. Đạo là con đường thực hành để dẫn ra khỏi khổ đau. Nếu Tập là “tà” thì đạo là “chánh” – phải tư duy đúng đắn, thấy đúng đắn, nói năng đúng đắn, hành động đúng đắn… Tất cả các tông phái Phật giáo (Thiền, Tịnh, Mật, Thiên thai, Duy thức…) dù có những sai biệt trong tư tưởng và đường lối thực hành nhưng vẫn không ra khỏi tư tưởng nền tảng như đã trình bày.
3. Tu Phật
Tu Phật là gì? Tu là sửa mình, sửa lại cái sai bằng cách suy nghĩ, nói năng, hành động đúng. Tụng kinh, ăn chay, niệm phật, ngồi thiền, cúng dường… sẽ không phải là tu nếu nó không lấy việc sửa mình làm mục đích. Nếu một người Phật tử làm một hành động nào đó, như ăn chay chẳng hạn, để mong được ban phước (hay được phước đức) thì đó không phải là một người Phật giáo! Cái ý muốn ấy là ý muốn của kẻ tham lam và ích kỉ, chỉ muốn đổi chác bằng cách bỏ ít để lấy nhiều; nó đồng thời là một sự mê tín khi không hiểu rằng ăn chay là cách nuôi dưỡng tình yêu thương với động vật, lòng yêu thương ấy sinh ra năng lượng tích cực và niềm hạnh phúc tự sinh khởi từ tâm ý tốt lành ấy; con người sống tốt lành, vô cầu vô dục thì trí tuệ sáng suốt, và đồng thời sẽ nhận được tình yêu thương từ mọi người mọi vật. Vì thế mà cuộc sống mỗi ngày một hạnh phúc và tốt lành hơn.
Vậy thì tu cái gì? chỉ có 3 chữ: GIỚI – ĐỊNH – TUỆ.
Giới là sự ngăn giữ mình trong khuôn khổ đạo đức để không phạm vào những tội ác (giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối…). Định là làm cho tâm yên ổn lại bằng cách trụ vào 1 đối tượng nào đó (ví dụ như trụ vào hơi thở – luôn biết hơi thở vào – ra chứ không để ý nghĩ lang thang chỗ khác) để đạt tới trạng thái quân bình. Tuệ là quan sát, suy nghĩ, tư duy đúng đắn – phải thấy biết được bản chất của thế giới và đời sống một cách chân thật (thấy được sự dời đổi vô thường, thấy được bản chất của đời sống là khổ, thấy được cái “tôi” là giả…) Tất cả mọi tông phái của Phật giáo đều là tu Định, tức làm cho tâm an trụ lại, chứ không để bị rơi vào tán loạn, rong ruổi mà đánh mất “chánh niệm”. Niệm Phật (Nam mô A Di Đà Phật) không phải là kêu tên cho Phật nghe, hay kêu Phật đến giúp (!) mà là làm cho tâm an trụ vào câu Phật hiệu này, và chỉ an trụ vào câu Phật hiệu, không để ý nghĩ lang thang. Niệm lâu ngày thì từ cái tâm lăng xăng nhảy nhót dần “thuần” lại, tức “định” lại, đạt tới “nhất tâm bất loạn”. Khi tâm định lại rồi thì trí tuệ sẽ sáng suốt, như nước lặng thì mặt trời hiện, mây tan thì mặt trăng tỏa rạng. Xin nhớ rằng, mọi sự thực hành trong đường lối của Phật giáo là đều nhằm để khắc chế cái tâm động loạn và vô minh này. Và mọi sự “tu hành” phải lấy việc hướng nội làm tông chỉ. Hướng ngoại tìm cầu đều là đường tà. Cho nên mới có câu “Phật tại tâm” là vì thế. Nhưng tại sao? Phật giáo giải minh rằng: Mỗi người đều vốn có trí tuệ sáng suốt viên mãn (tức là có tâm phật), nên Thích Ca mới nói “ta là Phật đã thành, các ông là phật sẽ thành”, chỉ cần nỗ lực, siêng năng đúng phương pháp thì sẽ khai mở được cái trí tuệ đang bị vùi lấp bởi vô minh kia (tham sân si) mà đạt tới trạng thái tâm sáng suốt và hạnh phúc chân thật (gọi là Niết Bàn). Như thế, Phật giáo chuyên chở một tinh thần nhân bản sâu xa và tư tưởng tự do tiến bộ mà ở đó con người được đề cao với địa vị chưa từng có. Và những người Phật giáo phải tự tin và tự lực mà khai mở lấy cái trí tuệ vô giá đang bị chôn lấp kia chứ không phải ném cuộc đời mình cho Phật hay Bồ Tát nào cả.
Thích Ca Mâu Ni nói
“Tin ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta”
Cái sự “không hiểu” này, cộng với thói tham lam cố hữu đã biến những người theo Phật giáo thành những kẻ mê tin dị đoan, biến một tư tưởng tiến bộ và đầy nhân văn thành một thứ tôn giáo mà ở đó cuộc sống của mỗi người lại bị ném ra cho những vị thầy (Phật) của mình. Phật – vị thầy giáo trí tuệ đã bị những người “theo Phật” biến thành một thần linh có khả năng ban phước giáng họa ! Họ đã không muốn trở thành con người tự chủ, tự do; mà ngược lại, từ trong vô minh, họ đã biến mình thành những nô lệ của lòng tham, biến mình thành kẻ yếu hèn và bạc nhược khi gửi gắm cuộc đời mình cho những “thế lực” bên ngoài. Người đến với Phật giáo là để thành tựu lý tưởng tự do; trở nên sáng suốt hơn, dũng khí hơn chứ không phải để sống kiếp ăn mày nơi cửa Phật. Tình trạng mê tín mịt mù trong xã hội Việt Nam ngày nay cần phải được tẩy uế bằng cách rọi ánh sáng của chánh pháp và tiếp nhận các thành tựu của khoa học nhân loại như Phân tâm học, vật lý lượng tử… để mong cứu chuộc lấy nhân tâm. Trách nhiệm ấy thuộc về những người quản lý, những nhà khoa học và những nhà giáo chân chính như là một cách thực hành từ bi đối với chúng sinh theo lời Phật dạy. Nhưng đồng thời, phải chữa được căn bệnh vô minh và tham lam của giới quan chức đã.